Kênh dành cho phái đẹp!

Giáo Trình Kinh Tế Du Lịch

articlewriting1

Giáo Trình Kinh Tế Du Lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 342 trang )

Bạn đang đọc: Giáo Trình Kinh Tế Du Lịch

GIÁO TRÌNH KINH TẾ DU LỊCH
GIÁO TRÌNH
KINH TẾ DU LỊCH
Tái bản lần thứ nhất
Đồng Chủ biên:
GS.TS. NGUYỄN VĂN ĐÍNH
PGS. TS. TRẦN THỊ MINH HOÀ
LỜI NÓI ĐẦU
Bạn đọc thân mến!
Các bạn đang có trên tay cuốn giáo trình “Kinh tế du lịch”, đây là cuốn
giáo trình được tái bản lần thứ nhất do tập thể giáo viên khoa Du lịch và
Khách sạn, Đại học Kinh tế Quốc dân biên soạn, tiếp sau các giáo trình “Tâm
lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch” (1996), “Quản trị
kinh doanh lữ hành” (1998), “Hướng dẫn du lịch”(2000), “Công nghệ phục vụ
trong khách sạn – nhà hàng”(2003). Trong hệ thống các môn học của chuyên
ngành đào tạo Quản trị kinh doanh du lịch và khách sạn nói riêng và Du lịch
nói chung, môn học Kinh tế du lịch có một vị trí quan trọng. Việc biên soạn
cuốn giáo trình này nhằm mục đích trang bị những kiến thức khái quát, cơ
bản cho người học. Nội dung của giáo trình bao gồm những vấn đề khái quát
như: khái niệm về du lịch; lịch sử hình thành, xu hướng phát triển, ý nghĩa
kinh tế – xã hội của du lịch; nhu cầu, loại hình và các lĩnh vực kinh doanh du
lịch; điều kiện phát triển du lịch; tính thời vụ trong du lịch. Đồng thời với những
nội dung trên, giáo trình còn bao hàm cả những vấn đề kinh tế du lịch như:
lao động, cơ sở vật chất – kỹ thuật, chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế du
lịch. Mặt khác, giáo trình cũng đề cập đến những vấn đề quản lý như quy
hoạch phát triển du lịch, tổ chức và quản lý ngành du lịch ở Việt Nam và thế
giới.

Với những nội dung như trên, giáo trình chỉ giới thiệu những kiến thức
nền tảng, để từ đó người học có thể tiếp tục học tập, nghiên cứu sâu hơn

theo từng chuyên ngành như: quản trị kinh doanh lữ hành, quản trị kinh doanh
khách sạn – nhà hàng, hướng dẫn du lịch… mà không đi cụ thể vào các lĩnh
vực này, nếu có thì chỉ là những ví dụ minh hoạ mà thôi.
Giáo trình do GS.TS. Nguyễn Văn Đính và PGS.TS. Trần Thị Minh Hoà
đồng chủ biên. Tham gia biên soạn còn có CN. Trương Tử Nhân.
PGS.TS. Trần Thị Minh Hoà biên soạn chương 1, 2, 3, 4, 5, 10, 11.
GS.TS. Nguyễn Văn Đính biên soạn chương 6, 8.
GS.TS. Nguyễn Văn Đính và CN. Trương Tử Nhân biên soạn chương
7, 9.
Trong quá trình biên soạn, các tác giả đã nhận được sự động viên,
khích lệ, giúp đỡ nhiệt tình của Ban chủ nhiện khoa, Hội đồng khoa học khoa
Du lịch và Khách sạn, của TS. Nguyễn Văn Lưu, GS.TS. Nguyễn Thành Độ,
PGS.TS. Trần Hậu Thự và của nhiều bạn bè, đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Đại học Kinh tế
Quốc dân và Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân đã cho xuất bản cuốn
giáo trình này.
Các tác giả hy vọng rằng, cuốn giáo trình này sẽ góp phần vào việc
nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch ở Đại học Kinh tế Quốc
dân nói riêng và ở các trường có chuyên ngành du lịch nói chung.
Có thể cuốn giáo trình này chưa thật sự làm hài lòng người đọc vì còn
nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi hy vọng nhận được nhiều ý kiến đóng góp
chân thành.
Thay mặt tập thể tác giả.
GS.TS. Nguyễn Văn Đính

Chương 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DU LỊCH
Yêu cầu của chương 1
Sau khi nghiên cứu nội dung của chương này, người học cần nắm

được những vấn đề cơ bản sau:
Những nguyên nhân của sự tồn tại các định nghĩa khác nhau về du lịch;
Nội dung của một số định nghĩa về du lịch (trên thế giới và ở Việt Nam)
và sự khác nhau của các định nghĩa đó;
Nội dung của một số định nghĩa về khách du lịch (trên thế giới và ở Việt
Nam) và các tiêu chí để xác định khách du lịch;
Phân loại khách du lịch (theo Tổ chức Du lịch Thế giới UN – WTO và
theo Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam);
Khái niệm sản phẩm du lịch, các bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch
và đặc điểm của sản phẩm du lịch.
1.1. Khái niệm “du lịch”
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến.
Hội đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council WTTC) đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả
ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia,
du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều
quốc gia khác, du lịch là một trong ba ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã
nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên
thế giới. Du lịch ngày nay là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang
tính chất toàn cầu. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ
tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài
người. Theo kết quả điều tra của các nhà khảo cổ học, họ đã tìm thấy di tích
của những người giống Homo Erectus ở Trung Quốc và Java (Indonesia), mà
giống người này theo lịch sử loài người có nguồn gốc ở miền Đông và Nam

Châu Phi cách đây khoảng 1 triệu năm. Các chuyên gia cho rằng để di
chuyển được một khoảng cách như vậy, loài người thời bấy giờ phải mất
khoảng 15.000 năm. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra về những động lực
tạo ra những cuộc hành trình trường kỳ như vậy. Một giả thuyết cho rằng

những người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy hiểm. Một
giả thuyết khác cho rằng con người quan sát sự di chuyển của loài chim và
muốn biết chúng từ đâu đến và chúng bay đi đâu, nên họ đã di chuyển mặc
dù họ không thiếu ăn nơi họ sinh sống. Tức là từ xa xưa, con người đã luôn
có tính tò mò muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài nơi sinh sống của
họ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có cảnh quan ra sao, muốn
biết về các dân tộc, nền văn hoá, các động vật, thực vật và địa hình ở những
vùng khác hay quốc gia khác.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UN – WTO) thì năm 2000 số lượng
khách du lịch toàn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm
2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt, thu nhập là 474 tỷ USD; dự tính đến
năm 2010 lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD.
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát
triển với tốc độ rất nhanh như vậy, song cho đến nay khái niệm “du lịch” được
hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau.
Đúng như Giáo sư, Tiến sỹ Bemeker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch
trên thế giới đã nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu
thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế
giới cũng như ở Việt Nam, song trước thực tế phát triển của ngành du lịch về
mặt kinh tế, xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo
luận để đi đến thống nhất khái niệm “du lịch” cũng như một số khái niệm cơ
bản khác về du lịch là một đòi hỏi khách quan.
Bản thân khái niệm “du lịch” có ý nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu
trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Từ thủa xa
xưa, loài người đã khởi hành với nhiều lý do khác nhau như vì lòng ham hiểu

biết về thế giới quan xung quanh, vì lòng yêu thiên nhiên, vì để học ngoại ngữ
v.v…

Mầm mống đầu tiên của hoạt động kinh doanh du lịch bắt đầu xuất hiện
từ cuộc phân chia lao động xã hội lần thứ hai (lúc ngành thủ công nghiệp xuất
hiện và sau đó tách ra khỏi ngành nông nghiệp truyền thống). Biểu hiện của
hoạt động kinh doanh du lịch trở nên rõ nét hơn khi ngành thương nghiệp
xuất hiện vào thời đại chiếm hữu nô lệ, tức là vào giai đoạn có sự phân chia
lao động lần thứ ba của xã hội loài người.
Vào đầu thế kỷ 17 bắt đầu diễn ra cuộc cách mạng về giao thông trên
thế giới – đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi, kim loại ngày càng có
mặt nhiều hơn trong ngành đường sắt, đóng tàu và công nghiệp sản xuất ô
tô. Chỉ sau một thời gian ngắn, ở châu Âu và châu Mỹ, mạng lưới đường sắt
đã được hình thành. Nhiều tàu lớn, nhỏ, hiện đại đi lại khắp các biển và vịnh
trên thế giới. Giao thông trở thành nguyên nhân chính và điều kiện vật chất
quan trọng giúp cho việc phát triển các cuộc khởi hành của con người được
thông suốt. Đến thế kỷ 19, khách du lịch chủ yếu đi lại tự túc, ít gây phiền hà
cho dân bản xứ. Muộn hơn, khi du lịch trở thành hiện tượng đại chúng, bắt
đầu nảy sinh ra hàng loạt vấn đề về việc đảm bảo chỗ ăn, chỗ ngủ cho những
người tạm thời sống ở nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Lúc này bắt
đầu xuất hiện các nghề mới trong dân chúng tại các vùng du lịch như: kinh
doanh khách sạn, nhà hàng, môi giới, hướng dẫn du lịch v.v… Hàng loạt các
cơ sở chuyên phục vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải
khát v.v… cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du lịch lần lượt ra đời.
Từ giữa thế kỷ 19, du lịch mới thực sự trở thành một hiện tượng đại chúng và
lặp đi, lặp lại đều đặn. Đó là lý do giải thích tại sao khoa học du lịch ra đời
muộn hơn một số ngành khoa học khác.
Như vậy, du lịch là hiện tượng kinh tế, xã hội phức tạp và trong quá
trình phát triển, nội dung của nó không ngừng được mở rộng và ngày thêm
phong phú. Để đưa ra một định nghĩa cho hiện tượng đó sao cho nó vừa

mang tính chất bao quát, vừa mang tính chất lý luận và thực tiễn, các tác giả

gặp không ít những khó khăn. Có thể nêu ra một số khó khăn sau:
Khó khăn thứ nhất: Do tồn tại các cách tiếp cận khác nhau và dưới
các góc độ khác nhau mà các tác giả có các định nghĩa khác nhau về du lịch.
Tiếp cận trên góc độ của người đi du lịch:
Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời ở ngoài nơi lưu trú thường
xuyên của cá thể, nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau, với mục đích hoà
bình và hữu nghị. Với họ, du lịch như là một cơ hội để tìm kiếm những kinh
nghiệm sống và sự thoả mãn một số các nhu cầu về vật chất và tinh thần của
mình.
Tiếp cận trên góc độ người kinh doanh du lịch:
Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm
thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du
lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra
nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách (người đi du lịch), đồng thời thông
qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hoá lợi nhuận.
Tiếp cận trên góc độ của chính quyền địa phương:
Trên góc độ này, du lịch được hiểu là việc tổ chức các điều kiện về
hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ du khách.
Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng, được tổ chức nhằm
giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch là một cơ hội để
bán các sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ
các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng
cao mức sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương.
Tiếp cận trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại:
Du lịch là một hiện tượng kinh tế-xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nó
được đặc trưng bởi sự tăng nhanh khối lượng và mở rộng phạm vi và cơ cấu
dân cư tham gia vào quá trình du lịch của mỗi nước, mỗi vùng trên thế giới.

Với họ, hoạt động du lịch tại địa phương mình vừa đem lại những cơ hội để

tìm hiểu về nền văn hoá và phong cách của người ngoài địa phương, người
nước ngoài; là cơ hội để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các
nghề cổ truyền, các nghề thủ công truyền thống của dân tộc. Thông qua du
lịch, một mặt có thể tăng thu nhập, nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến
đời sống người dân sở tại như: về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn
chốn ở v.v…
Khó khăn thứ hai: Là do sự khác nhau về ngôn ngữ và cách hiểu khác
nhau về du lịch ở các nước khác nhau.
Theo các học giả khác nhau, bản thân thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ
nhiều nước, cũng được bắt nguồn từ một số nguồn gốc khác nhau.
Có một số học giả cho rằng thuật ngữ “du lịch” trong ngôn ngữ nhiều
nước bắt nguồn từ gốc tiếng Pháp “le tourisme”. Bản thân từ “le tourisme” lại
được bắt nguồn từ gốc “le tour” – có nghĩa là một cuộc hành trình đi đến nơi
nào đó và quay trở lại. Thuật ngữ đó sang tiếng Anh thành “tourism”, tiếng
Nga – “mypuzm” v.v…. Như vậy, khái niệm “du lịch” ở các nước như Pháp,
Anh, Tây Ban Nha, Nga, v.v… có ý nghĩa đầu tiên là khởi hành, đi lại, chinh
phục không gian.
Người Đức lại không sử dụng gốc từ tiếng Pháp mà sử dụng từ “der
Fremdenverkehrs” là tổ hợp từ 3 từ có nghĩa là ngoại (lạ); giao thông (đi lại)
và mối quan hệ. Vì vậy, các học giả người Đức nhìn nhận “du lịch” như là mối
quan hệ, sự đi lại hay vận chuyển của những người đi du lịch. Một cách cụ
thể hơn thì với gốc từ đó, đằng sau hiện tượng “du lịch” người Đức hiểu rằng
đó là các mối quan hệ, được hình thành trong thời gian khởi hành và lưu trú
tạm thời, giữa khách du lịch và các nhân viên phục vụ.
Một số học giả khác lại cho rằng thuật ngữ “du lịch” trong ngôn ngữ
nhiều nước được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tomos” với nghĩa đi một vòng.
Thuật ngữ này được Latin hoá thành “tomus” và sau đó thành “tourisme”
(tiếng Pháp); tourism (tiếng Anh), “mypuzm” (tiếng Nga) v.v…

Tuy có thể chưa có sự thống nhất về nguồn gốc của thuật ngữ “du lịch”
theo ý kiến của các học giả khác nhau, song điều quan trọng hơn là nghĩa
đầu tiên của thuật ngữ đó đều được bắt nguồn từ gốc: cuộc hành trình đi một
vòng từ một nơi này đến một nơi khác và có quay trở lại.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “du lịch” được dịch ra thông qua tiếng Trung
Quốc.
Tuy nhiên, hiện nay có sự tồn tại các cách nhìn nhận khác nhau về du
lịch ở các nước khác nhau là do các nguyên nhân sau đây:
Phụ thuộc vào lịch sử và trình độ phát triển của ngành du lịch. Ngành
du lịch phát triển ở mức độ khác nhau, kéo theo sự phát triển khác nhau của
khoa học nghiên cứu du lịch, từ đó dẫn đến các cách nhìn nhận khác nhau về
du lịch.
Phụ thuộc vào tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế – xã hội
của đất nước (là ngành kinh tế mũi nhọn; là ngành kinh tế quan trọng; là
ngành đem lại lợi nhuận cao hay đem lại lợi nhuận không đáng kể). Tầm quan
trọng và vai trò của du lịch cũng ảnh hưởng đến mức độ phát triển của lĩnh
vực khoa học du lịch.
Phụ thuộc vào chính sách phát triển du lịch ở mỗi quốc gia.
Mỗi nước có một chính sách phát triển du lịch riêng. Có nước ưu tiên
phát triển du lịch quốc tế chủ động, nước khác – du lịch quốc tế thụ động,
nước thứ ba – du lịch nội địa v.v… Do vậy, khi đưa ra định nghĩa về du lịch,
người ta có thể thiên về khía cạnh kinh tế hoặc thiên về khía cạnh xã hội v.v…
Khó khăn thứ ba: Do tính chất đặc thù của hoạt động du lịch.
Do tính chất đồng bộ và tổng hợp của nhu cầu du lịch.
Nhu cầu du lịch là tổng hợp của các nhu cầu: nhu cầu đi lại, ăn nghỉ, vui
chơi, giải trí và các nhu cầu bổ sung khác.
Các nhu cầu trên xuất phát đồng bộ trong một khoảng thời gian nhất
định (thời gian đi du lịch).

Do tính chất tổng hợp trong hoạt động kinh doanh du lịch
Một sản phẩm du lịch tổng hợp không thể do một đơn vị kinh doanh tạo
ra mà do tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng tạo ra. Khách du lịch
trong một chuyến đi du lịch ngoài việc thoả mãn một số nhu cầu đặc trưng
như tham quan, giải trí, chữa bệnh v.v…, họ vẫn có những nhu cầu thường
ngày như ăn, ngủ. Do vậy, họ phải sử dụng nhiều loại dịch vụ và hàng hoá
khác nhau. Trên thực tế, các loại dịch vụ và hàng hoá khác nhau khó có thể
chỉ do một cơ sở du lịch duy nhất tạo ra hay sản xuất ra được. Trong một
chuyến đi du lịch, khách du lịch không chỉ sử dụng một sản phẩm du lịch đơn
thuần, mà phải sử dụng một sản phẩm du lịch tổng hợp. Vì những lý do đó,
hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chất tổng hợp. Các thành viên tham
gia vào quá trình tạo nên một sản phẩm du lịch tổng hợp là rất đa dạng. Do
vậy, việc thống nhất, liên kết mọi nỗ lực và tham vọng là hết sức cần thiết.
Do mối quan hệ, liên kết với các ngành khác, các nhà cung cấp
Du lịch là hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp. Do vậy, ngành du lịch chỉ
có thể phát triển được khi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành khác như
tài chính – ngân hàng, xây dựng, giao thông vận tải, văn hoá, hải quan, bưu
chính – viễn thông v.v…
Trong một chuyến đi du lịch, khách du lịch không chỉ sử dụng các dịch
vụ và hàng hóa của các cơ sở du lịch, mà họ còn phải sử dụng một số dịch vụ
và hàng hoá của các cơ sở thuộc các ngành khác: làm thủ tục visa, đổi tiền,
gọi điện, gửi thư, đi lại bằng phương tiện giao thông công cộng, tư nhân v.v…
Do du lịch là hoạt động kinh tế mới mẻ, còn đang trong quá trình phát
triển.
Du lịch đại chúng phát triển mạnh từ giữa thế kỷ 19, lại bị gián đoạn bởi
2 cuộc đại chiến thế giới.
Do tính hai mặt của bản thân từ “du lịch”.
Xưa kia khi hoạt động du lịch là sơ khai, mang tính lẻ tẻ không quần
chúng thì khi nói đến khách du lịch tức là nói đến người khởi hành đi tìm kiếm

những kiến thức và sự giải trí, khi nói đến du lịch, tức là nói đến cuộc hành
trình và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên.
Nhưng, khi hoạt động du lịch đã mang tính quần chúng, xuất hiện một bộ máy
đặc biệt phục vụ du lịch (xuất hiện các xí nghiệp và hoạt động phục vụ du lịch
như y tế, thương mại, sản xuất, du lịch v.v…) thì khi nói đến du lịch phải đề
cập đến hai khía cạnh của hiện tượng.
Do sự tồn tại của các khó khăn khách quan và chủ quan như đã nêu ở
trên trong việc tìm ra một định nghĩa thống nhất về du lịch, cho nên, đến nay
có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về du lịch của các tác giả khác nhau.
Tìm hiểu lịch sử phát triển của lý thuyết về du lịch từ trước đến nay,
chúng ta thấy các định nghĩa được phân một cách tương đối làm hai nhóm:
nhóm thứ nhất gồm các định nghĩa xem xét sâu về khái niệm “khách du
lịch”và nhóm thứ hai gồm các định nghĩa xem xét sâu về khái niệm “du lịch”.
Sau đây, chúng ta xem xét một số khái niệm tiêu biểu về du lịch:
Năm 1811, lần đầu tiên có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau: “Du
lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của (các) cuộc
hành trình với mục đích giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính”.
Năm 1930, ông Glusman, người Thuỵ Sỹ định nghĩa: “Du lịch là sự
chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không
có chỗ cư trú “thường xuyên”.
Ông Kuns, một người Thuỵ Sỹ khác cho rằng: “Du lịch là hiện tượng
những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường xuyên, đi đến bằng các phương
tiện giao thông và sử dụng sản phẩm của các xí nghiệp du lịch.”
Giáo sư, tiến sỹ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf – hai người được coi
là những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa
như sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh
trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu
việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không dính dáng đến
hoạt động kiếm lời”.

Đại hội lần thứ 5 của Hiệp hội quốc tế những nhà nghiên cứu khoa học
về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này làm cơ sở cho môn khoa học du lịch.
Các tác giả của định nghĩa đã thành công trong việc mở rộng và bao quát đầy
đủ hơn hiện tượng du lịch. Định nghĩa đã tiến được một bước về lý thuyết
trong việc nghiên cứu nội dung của du lịch. Định nghĩa này ngày nay vẫn
được nhiều nhà kinh tế sử dụng để giải thích từng mặt và cả hiện tượng du
lịch. Mặc dù có những thành công, song định nghĩa này vẫn chưa giới hạn
được đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và của mối quan hệ du
lịch (các mối quản hệ và hiện tượng thuộc loại nào kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hoá v.v…). Ngoài ra, định nghĩa bỏ sót hoạt động của các công ty giữ
nhiệm vụ trung gian; nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá
và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Giáo sư, Tiến sỹ Krapf có phân
biệt rõ sự khác nhau giữa du lịch chủ động và du lịch thụ động, nhưng khi
định nghĩa du lịch là hiện tượng kinh tế, ông bỏ sót vế quan trọng về các tổ
chức du lịch.
Khi đó Đại hội chấp nhận định nghĩa trên nhưng đặt vấn đề cần tiếp tục
hoàn thiện định nghĩa về du lịch.
Định nghĩa về du lịch trong cuốn Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch Le Dictionnaire international du tourisme do Viện hàn lâm khoa học quốc tế về
du lịch xuất bản:
“Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực
hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu
cầu của khách du lịch… Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi
hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm
thoả mãn các nhu cầu của họ.”
Nhìn chung, định nghĩa này không được nhiều nước chấp nhận. Định
nghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng du lịch mà ít phân tích nó như một
hiện tượng kinh tế.
Định nghĩa của ĐHKT Praha (CH Séc).

“Du lịch là tập hợp các hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan
đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường
xuyên với nhiều mục đích khác nhau loại trừ mục đích hành nghề và thăm
viếng có tổ chức thường kỳ”.
Định nghĩa về du lịch của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Vama,
Bulgarie:
“Du lịch là một hiện tượng kinh tế – xã hội được lặp đi, lặp lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hoá của các đơn vị kinh tế riêng
biệt, độc lập – đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật
chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với mục đích
thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất và tinh thần của những người lưu trú
ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các
nhu cầu về văn hoá, chính trị, kinh tế, v.v…) mà không có mục đích lao động
kiếm lời”.
Định nghĩa này đã xem xét rất kỹ hiện tượng du lịch như là một phạm
trù kinh tế với đầy đủ tính đặc trưng và vai trò của một bộ máy kinh tế, kỹ
thuật điều hành. Song, nó cũng có nhược điểm là lặp đi lặp lại một số ý.
Định nghĩa của Michael Coltman (Mỹ):
Ngược lại với những định nghĩa ở trên, Ông Michael Coltman đã đưa ra
một định nghĩa rất ngắn gọn về du lịch:
“Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình
phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân
sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.
Có thể thể hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:
Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa, Canada
diễn ra vào (6-1991): “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài
môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình) trong một khoảng
thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước,

mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền
trong phạm vi vùng tới thăm”.
Trong định nghĩa trên đây đã quy định rõ mấy điểm:
Ngoài “môi trường thường xuyên” có nghĩa là loại trừ các chuyến đi
trong phạm vi nơi ở thường xuyên và các chuyến đi có tổ chức thường xuyên
hàng ngày (các chuyến đi thường xuyên định kỳ có tổ chức phường hội giữa
nơi ở và nơi làm việc và các chuyến đi phường hội khác có tổ chức thường
xuyên hàng ngày).
“Khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch
quy định trước” – sự quy định này nhằm loại trừ di cư trong một thời gian dài.
“Không phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới
thăm” – có nghĩa là loại trừ việc hành nghề lâu dài hoặc tạm thời.
Để có quan niệm đầy đủ cả về góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch,
khoa Du lịch và Khách sạn (Trường ĐHKTQD Hà Nội) đã đưa ra định nghĩa
trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động trên thế giới và
ở Việt Nam trong những thập niên gần đây:
“Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức
hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh
nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải
trí, tìm hiểu và nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại
lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản
thân doanh nghiệp”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại Điều 10, thuật ngữ “Du lịch”
được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch

vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hoá – xã
hội.
Trên thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều nước chẳng những đã đem lại
lợi ích kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội… Ở nhiều nước trên
thế giới, ngành du lịch phát triển với tốc độ khá nhanh và trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, nguồn thu nhập từ ngành du lịch đã
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội.
Chính vì những lẽ trên, Hội nghị du lịch thế giới họp tại Manila, Philippin
(1980) đã ra tuyên bố Manila về du lịch, trong Điều 2 đã ghi rõ: “… Trước
ngưỡng cửa của thế kỷ 21 và trước triển vọng của những vấn đề đang đặt ra
đối với nhân loại, đã đến lúc cần thiết và phải phân tích bản chất của du lịch,
chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao động
được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du lịch từ một phạm vi hẹp của
thú vui sang phạm vi lớn của cuộc sống kinh tế và xã hội. Phần đóng góp của
du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trở
thành một luận cứ tốt cho sự phát triển của thế giới. Vai trò thiết thực của du
lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cân
bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành hoạt
động kinh tế thế giới quan trọng nhất.”
1.2. Khái niệm “khách du lịch”
Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ
XVIII tại Pháp. Thời bấy giờ các cuộc hành trình của người Đức, người Đan
Mạch, người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và người Anh trên đất Pháp được
chia ra làm 2 loại.
Cuộc hành trình nhỏ (vòng đi nhỏ “Le petit tour”) là cuộc hành trình từ
Paris đến miền Đông Nam nước Pháp.
Cuộc hành trình lớn (vòng đi lớn “Le grand tour”) là cuộc hành trình
theo Bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và vùng Bourgone.

Khách du lịch được định nghĩa là người thực hiện một cuộc hành trình
lớn “faire le grand tour”.
Năm 1800, tại Vương Quốc Anh, khách du lịch cũng được định nghĩa là
người thực hiện cuộc hành trình lớn trên đất liền xuyên nước Anh.
Vào đầu thế kỷ XX, nhà kinh tế học người Áo Iozef Stander định nghĩa:
“Khách du lịch là hành khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trú
thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo
đuổi các mục đích kinh tế”.
Nhà kinh tế học người Anh Odgil Vi khẳng định: để trở thành khách du
lịch cần có hai điều kiện.
Thứ nhất: Phải xa nhà thời gian dưới một năm
Thứ hai: Ở đó phải tiêu những khoản tiền đã tiết kiệm ở nơi khác.
Một người Anh khác, ông Morval cho rằng khách du lịch là người đến
đất nước khác theo nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân đó
khác biệt với những nguyên nhân phát sinh để cư trú thường xuyên và để làm
thương nghiệp, và ở đó họ phải tiêu tiền đã kiếm ra ở nơi khác.
Giáo sư Khadginicolov – một trong những nhà tiền bối về du lịch của
Bulgarie đưa ra định nghĩa về khách du lịch: “Khách du lịch là người hành
trình tự nguyện, với những mục đích hoà bình. Trong cuộc hành trình của
mình, người đó đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi một hoặc
nhiều lần nơi lưu trú của mình”.
Các định nghĩa nêu ra ở trên đều mang tính phiến diện, chưa đầy đủ,
chủ yếu mang tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương thời và xem
xét không đầy đủ, hạn chế nội dung thực của khái niệm – khách du lịch.
Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở đáng tin cậy, cần tìm hiểu
và phân tích một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các hội nghị
quốc tế về du lịch hay của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến các vấn đề
về du lịch.

1.2.1. Định nghĩa của các tổ chức quốc tế về khách du lịch
Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia – League of Nations
Năm 1937 League of Nations đưa ra định nghĩa về “khách du lịch nước
ngoài – foreign tourist”: “Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú
thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24h”.
Theo định nghĩa này tất cả những người được coi là khách du lịch
là:
Những người khởi hành để giải trí, vì những nguyên nhân gia đình, vì
sức khoẻ v.v…
Những người khởi hành để gặp gỡ, trao đổi các mối quan hệ về khoa
học, ngoại giao, tôn giáo, thể thao, công vụ…
Những người khởi hành vì các mục đích kinh doanh (business
reasons);
Những người cập bến từ các chuyến hành trình du ngoại trên biển (sea
cruise) thậm chí cả khi họ dừng lại trong khoảng thời gian ít hơn 24h.
Những người không được coi là khách du lịch là:
Những người đến lao động, kinh doanh có hoặc không có hợp đồng lao
động;
Những người đến với mục đích định cư;
Sinh viên hay những người đến học ở các trường;
Những người ở biên giới sang làm việc;
Những người đi qua một nước mà không dừng mặc dù cuộc hành trình
đi qua nước đó có thể kéo dài 24h.
Định nghĩa của Liên hiệp Quốc tế của các Tổ chức Chính thức về Du
lịch – IUOTO (International Union of Official Travel Organizations – sau này trở
thành WTO).

Năm 1950, IUOTO đưa ra định nghĩa về “khách du lịch quốc tế international tourist” với 2 điểm khác với định nghĩa trên, đó là:

Sinh viên và những người đến học ở các trường cũng được coi là
khách du lịch.
Những người quá cảnh không được coi là khách du lịch trong cả hai
trường hợp: Hoặc là họ hành trình qua một nước không dừng lại trong thời
gian > 24 giờ; hoặc là họ hành trình trong khoảng thời gian < 24 giờ và có
dừng lại nhưng không với mục đích du lịch.
Định nghĩa về khách du lịch được chấp nhận tại Hội nghị tại Rôma (Ý)
do Liên hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm
1963).
Trong các chuẩn mực thống kê quốc tế của Tổ chức Du lịch Thế giới
(WTO) khái niệm khách viếng thăm quốc tế (visitor) có vai trò quan trọng
chính (xem sơ đồ 1.1). Theo định nghĩa của Hội nghị tại Rôma (Ý) do Liên
hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm 1963),
khách đến thăm quốc tế (visitor) được hiểu là người đến một nước, khác
nước cư trú thường xuyên của họ, bởi mọi nguyên nhân, trừ nguyên nhân
đến lao động để kiếm sống.
Khái niệm khách viếng thăm quốc tế bao gồm 2 thành phần: khách du
lịch quốc tế và khách tham quan quốc tế (được thống kê trong du lịch).
Khách du lịch quốc tế (intematinal tourist) là người lưu lại tạm thời ở
nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít
nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít nhất một tối trọ). Động cơ khởi hành của họ
được phân nhóm như sau:
Thời gian rỗi (đi du lịch để giải trí, để chữa bệnh, để học tập, với mục
đích thể thao hoặc tôn giáo).
Đi du lịch liên quan đến công việc làm ăn (ký kết giao kèo); thăm gia
đình, bạn bè, họ hàng; đi du lịch để tham gia vào các cuộc hội nghị đại hội các
cuộc đua thể thao v.v…

Với khái niệm trên, khách du lịch quốc tế bao gồm những người sau

đây:
Người nước ngoài, không sống ở nước đến thăm và đi theo các động
cơ đã nêu trên.
Công dân của một nước, sống cư trú thường xuyên ở nước ngoài về
thăm quê hương.
Nhân viên của các tổ lái (máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ô tô) đến thăm,
nghỉ ở nước khác và sử dụng phương tiện cư trú. Ở đây kể cả những người
không phải là nhân viên của các hãng giao thông vận tải mà là những lái xe
tải, xe ca tư nhân.
Khách tham quan quốc tế (international excursionist) là người lưu lại
tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong
thời gian ít hơn 24 giờ (hoặc là không sử dụng một tối trọ nào). Ở đây kể tất
cả những người đến một nước theo đường bộ, đường biển với thời gian là
mấy ngày, hàng tối họ lại trở về ngủ tại tàu, thuyền, ô tô v.v… đưa họ đi. Vậy,
khách thăm quan quốc tế bao gồm những thành phần sau:
Những khách tham quan theo đường biển, tối về ngủ lại tàu (nếu không
ngủ lại tàu mà sử dụng các phương tiện lưu trú thì họ trở thành khách du
lịch).
Nhân viên của các tổ lái đến thăm nghỉ ở nước khác, nhưng ngủ tại
phương tiện giao thông của mình.
Khách đến thăm một nước khác trong vòng một ngày.
Nhưng người sau không được coi là khách du lịch (không được thống
kê trong du lịch):
Những người ra nước ngoài để tìm kiếm việc làm hoặc để làm ăn theo
hoặc không theo hợp đồng.
Những công dân ở vùng giáp giới sống ở nước bên này, nhưng làm
việc ở nước bên cạnh.

Những người dân di cư tạm thời hoặc cố định

Những người tị nạn.
Những người tha phương cầu thực
Các nhà ngoại giao
Nhân viên của các đại sứ quán, lãnh sự quán và các lực lượng bảo an.
Năm 1968, uỷ ban Thống kê của Liên Hợp Quốc – United Nations
Statistical Commision công nhận định nghĩa đó. Tuy nhiên, Uỷ ban đồng ý với
một số nước sử dụng từ “khách viếng thăm trong ngày – sameday visitor” thay
cho “khách tham quan – excursionist” và thay điều kiện thời gian 24 giờ là một
tối trọ – overnight.
Định nghĩa của Tiểu ban về các vấn đề kinh tế – xã hội trực thuộc Liên
hiệp quốc (United Nations Department of Economic and Social Affaires)
Năm 1978, Tiểu ban đã đưa ra định nghĩa về “khách viếng thăm quốc tế
– international visitor from abroad” như sau: “Khách viếng thăm quốc tế là tất
cả những người từ nước ngoài đến thăm một đất nước (given country) chúng ta gọi là khách du lịch chủ động (Inbound tourist); hoặc tất cả những
người từ một nước đi ra nước ngoài viếng thăm – chúng ta gọi là khách du
lịch thụ động (Outbound tourist) với khoảng thời gian nhiều nhất là một năm.
Tiểu ban còn đưa ra định nghĩa về “khách du lịch nội địa – Domestic
tourist” như sau: “Khách du lịch nội địa là công dân của một nước (không kể
quốc tịch) hành trình đến một nơi trong đất nước đó, khác nơi cư trú thường
xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ, hay 1 đêm với mọi
mục đích trừ mục đích hoạt động để được trả thù lao tại nơi đến”.
Tiểu ban cũng thống nhất về động cơ của mỗi cuộc hành trình, có thể
thuộc 2 nhóm động cơ như sau:
Nghỉ ngơi, giải trí, kỳ nghỉ, sức khoẻ, học tập, tôn giáo, thể theo.
Kinh doanh, gia đình, công vụ, gặp gỡ.
Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về Du lịch tại Hà Lan năm 1989:

“Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác, với
mục đích tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian nhỏ

hơn 3 tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù lao
và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình”.
Điểm đặc biệt nhất của định nghĩa này là quy định về thời gian của
chuyến đi du lịch đối với khách du lịch quốc tế (nhỏ hơn 3 tháng).
Ngày 4-3-1993 theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng
Thống kê Liên hiệp quốc (United Nations Statistical Commission) đã công
nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
Khách du lịch quốc tế (International tourist) bao gồm:
Khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist): Gồm những người từ nước
ngoài đến du lịch một quốc gia.
Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound tourist): Gồm những
người đang sống trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài.
Khách du lịch trong nước (Internal touristy): Gồm những người là công
dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ
của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Khách du lịch nội địa (Domestic touristy): bao gồm khách du lịch trong
nước và khách du lịch quốc tế đến.
Đây là thị trường cho các cơ sở lưu trú và các nguồn thu hút du khách
trong một quốc gia.
Khách du lịch quốc gia (National touristy, bao gồm khách du lịch trong
nước và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài.
Đây là thị trường cho các đại lý lữ hành và các hãng hàng không.
Nghiên cứu một số định nghĩa khác nữa về khách du lịch cho thấy rằng,
mặc dù còn có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về khách du lịch nói chung,
khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa nói riêng, song xét một cách
tổng quát chúng đều có một số điểm chung nổi bật như sau:

Khách du lịch phải là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên
của mình (ở đây tiêu chí quốc tịch không quan trọng, mà là tiêu chí nơi cư trú

thường xuyên).
Khách du lịch có thể khởi hành với mọi mục đích khác nhau, loại trừ
mục đích lao động để kiếm tiền ở nơi đến. Như vậy, những đối tượng sau
không được thống kê là khách du lịch:
Những người đến để làm việc có hoặc không có hợp đồng lao động;
Những người đi học;
Những người di cư, tị nạn;
Những người làm việc tại các đại sứ quán, lãnh sự quán;
Những người thuộc lực lượng bảo an của Liên hiệp quốc;
Và một số đối tượng khác nữa.
Thời gian lưu lại nơi đến ít nhất là 24 giờ (hoặc có sử dụng ít nhất một
tối trọ), nhưng không được quá một năm (cũng có quốc gia qui định thời gian
này ngắn hơn, ví dụ như ở Hà Lan là không quá 3 tháng). Như vậy, những
người lưu lại trong ngày (không sử dụng một tối trọ nào) chỉ được thống kê là
khách tham quan (excursionist) đối với nơi đến.
Có một số quốc gia đưa ra thêm một tiêu chuẩn qui định về khách du
lịch nữa là: Khoảng cách tối thiểu mà người đó đi ra khỏi nhà. Ví dụ: ở
Canada khoảng cách đó là 100 dặm, ở Mỹ là 50 dặm.
Như vậy, các định nghĩa đã nêu ở trên về khách du lịch ít nhiều có
những điểm khác nhau song nhìn chung chúng đều đề cập đến 3 khía cạnh
sau:
Thứ nhất, đề cập đến động cơ khởi hành (có thể là đi tham quan, nghỉ
dưỡng, thăm thân, kết hợp kinh doanh… trừ động cơ lao động kiếm tiền);
Thứ hai, đề cập đến yếu tố thời gian (đặc biệt chú trọng đến sự phân
biệt giữa khách tham quan trong ngày và khách du lịch là những người nghỉ
qua đêm hoặc có sử dụng một tối trọ);

Thứ ba, đề cập đến những đối tượng được thống kê là khách du lịch và
những đối tượng không được thống kê là khách du lịch như: dân di cư, khách

quá cảnh,…
1.2.2. Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam ban hành năm 1999 có những
qui định như sau về khách du lịch:
Tại điểm 2, Điều 10, Chương I: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận
thu nhập ở nơi đến”.
Tại Điều 20, Chương IV: “Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa
và khách du lịch quốc tế”.
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”.
1.3. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó
Đề cập đến bất cứ hoạt động kinh doanh nào, chúng ta cũng không thể
không nhắc đến sản phẩm của hoạt động đó. Vì vậy, khi tìm hiểu các khái
niệm chung về du lịch chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm
du lịch và những nét đặc trưng cơ bản của nó.
1.3.1. Khái niệm
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách,
được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với
việc sử dụng các nguồn lực: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ
sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
1.3.2. Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch

Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả
những yếu tố hữu hình và những yếu tố vô hình. Yếu tố hữu hình là hàng
hoá, yếu tố vô hình là dịch vụ.

Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình
du lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch
theo các nhóm cơ bản sau:
Dịch vụ vận chuyển
Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống; đồ ăn, thức uống
Dịch vụ tham quan, giải trí
Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm
Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch
1.3.3. Những nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng
vật thể. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm 8090% về mặt giá trị), hàng hoá chiếm tỷ trọng nhỏ.
Do vậy, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, vì
thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào người kinh
doanh mà phụ thuộc vào khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được
xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận
về chất lượng của khách du lịch.
Chính vì đặc điểm này của sản phẩm du lịch nên đã có nhiều ý kiến cho
rằng trong lĩnh vực du lịch việc sử dụng thuật ngữ “sản phẩm du lịch” để chỉ
kết quả của quá trình lao động du lịch là không chính xác bằng thuật ngữ
“dịch vụ du lịch”. Nhưng, việc sử dụng thuật ngữ “sản phẩm du lịch” là hoàn
toàn chính xác.
Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du
lịch.

Do vậy, sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế,
không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách
du lịch phải đến với nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình
thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch.
Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhân

gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau
về không gian và thời gian. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các hàng
hoá thông thường khác.
Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn.
Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng
quan trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà có
thể chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm
ở bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối
tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại hình du lịch như: du lịch
nghỉ biển, du lịch nghỉ núi…).
Vì vậy, trên thực tế hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính mùa
vụ. Sự dao động (về thời gian) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc
tổ chức hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
của các nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du
lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như về mặt lý luận trong
lĩnh vực du lịch.
Tóm tắt chương 1
Chương “Một số khái niệm cơ bản về du lịch” đã trình bày những nội
dung cơ bản như sau:
Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại các định nghĩa khác
nhau về du lịch;

Đưa ra một số khái niệm về du lịch trên thế giới và ở Việt Nam;
Đưa ra và phân tích một số khái niệm về khách du lịch trên thế giới và
ở Việt Nam;
Đưa ra khái niệm và phân tích đặc điểm của sản phẩm du lịch.
Câu hỏi ôn tập và thảo luận chương 1

1) Phân tích khái niệm về du lịch của Michael Coltman (phân tích các
bộ phận cấu thành hoạt động du lịch và mối quan hệ giữa chúng).
2) Phân tích các tiêu chí để xác định khách du lịch.
3) Phân tích bản chất và ý nghĩa của các thể loại khách du lịch phân
theo Tổ chức Du lịch Thế giới năm 1993.
4) Phân tích các đặc điểm của sản phẩm du lịch, nêu những khó khăn
do chúng gây ra và các biện pháp khắc phục.

Chương 2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, XU HƯỚNG PHÁT
TRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA DU LỊCH
Yêu cầu của chương 2
Sau khi nghiên cứu nội dung của chương này, người học cần nắm
được những nội dung chính sau:
– Các giai đoạn của lịch sử hình thành và phát triển của du lịch trên thế
giới, của các khu vực, quốc gia phát triển mạnh du lịch trên thế giới cùng các
xu hướng phát triển của nhu cầu du lịch; thể loại du lịch theo các giai đoạn đó.
– Các xu hướng phát triển của cầu, cung du lịch trên thế giới, tại Việt
Nam
– Các tác động, về mặt kinh tế, xã hội của việc phát triển du lịch quốc tế
chủ động, du lịch quốc tế thụ động, du lịch nội địa.
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của du lịch

theo từng chuyên ngành như : quản trị kinh doanh thương mại lữ hành, quản trị kinh doanhkhách sạn – nhà hàng quán ăn, hướng dẫn du lịch … mà không đi đơn cử vào những lĩnhvực này, nếu có thì chỉ là những ví dụ minh hoạ mà thôi. Giáo trình do GS.TS. Nguyễn Văn Đính và PGS.TS. Trần Thị Minh Hoàđồng chủ biên. Tham gia biên soạn còn có CN. Trương Tử Nhân. PGS.TS. Trần Thị Minh Hoà biên soạn chương 1, 2, 3, 4, 5, 10, 11. GS.TS. Nguyễn Văn Đính biên soạn chương 6, 8. GS.TS. Nguyễn Văn Đính và CN. Trương Tử Nhân biên soạn chương7, 9. Trong quy trình biên soạn, những tác giả đã nhận được sự động viên, khuyến khích, trợ giúp nhiệt tình của Ban chủ nhiện khoa, Hội đồng khoa học khoaDu lịch và Khách sạn, của TS. Nguyễn Văn Lưu, GS.TS. Nguyễn Thành Độ, PGS.TS. Trần Hậu Thự và của nhiều bè bạn, đồng nghiệp. Chúng tôi xin chânthành cảm ơn sự trợ giúp quí báu đó. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Đại học Kinh tếQuốc dân và Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân đã cho xuất bản cuốngiáo trình này. Các tác giả kỳ vọng rằng, cuốn giáo trình này sẽ góp thêm phần vào việcnâng cao chất lượng giảng dạy chuyên ngành du lịch ở Đại học Kinh tế Quốcdân nói riêng và ở những trường có chuyên ngành du lịch nói chung. Có thể cuốn giáo trình này chưa thật sự làm hài lòng người đọc vì cònnhiều khiếm khuyết. Chúng tôi kỳ vọng nhận được nhiều quan điểm đóng gópchân thành. Thay mặt tập thể tác giả. GS.TS. Nguyễn Văn ĐínhChương 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DU LỊCHYêu cầu của chương 1S au khi nghiên cứu và điều tra nội dung của chương này, người học cần nắmđược những yếu tố cơ bản sau : Những nguyên do của sự sống sót những định nghĩa khác nhau về du lịch ; Nội dung của một số ít định nghĩa về du lịch ( trên quốc tế và ở Nước Ta ) và sự khác nhau của những định nghĩa đó ; Nội dung của một số ít định nghĩa về khách du lịch ( trên quốc tế và ở ViệtNam ) và những tiêu chuẩn để xác lập khách du lịch ; Phân loại khách du lịch ( theo Tổ chức Du lịch Thế giới UN – WTO vàtheo Pháp lệnh Du lịch của Nước Ta ) ; Khái niệm mẫu sản phẩm du lịch, những bộ phận hợp thành mẫu sản phẩm du lịchvà đặc thù của loại sản phẩm du lịch. 1.1. Khái niệm ” du lịch ” Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kỳ lạ kinh tế – xã hội thông dụng. Hội đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế ( World Travel and Tourism Council WTTC ) đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất quốc tế, vượt trên cảngành sản xuất xe hơi, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số ít vương quốc, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiềuquốc gia khác, du lịch là một trong ba ngành kinh tế số 1. Du lịch đãnhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều vương quốc trênthế giới. Du lịch ngày này là một đề tài mê hoặc và đã trở thành yếu tố mangtính chất toàn thế giới. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉtiêu để nhìn nhận chất lượng của đời sống. Hoạt động du lịch đã Open từ lâu trong lịch sử vẻ vang tăng trưởng của loàingười. Theo hiệu quả tìm hiểu của những nhà khảo cổ học, họ đã tìm thấy di tíchcủa những người giống Homo Erectus ở Trung Quốc và Java ( Indonesia ), màgiống người này theo lịch sử dân tộc loài người có nguồn gốc ở miền Đông và NamChâu Phi cách đây khoảng chừng 1 triệu năm. Các chuyên viên cho rằng để dichuyển được một khoảng cách như vậy, loài người thời bấy giờ phải mấtkhoảng 15.000 năm. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra về những động lựctạo ra những cuộc hành trình dài trường kỳ như vậy. Một giả thuyết cho rằngnhững người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy khốn. Mộtgiả thuyết khác cho rằng con người quan sát sự vận động và di chuyển của loài chim vàmuốn biết chúng từ đâu đến và chúng bay đi đâu, nên họ đã vận động và di chuyển mặcdù họ không thiếu ăn nơi họ sinh sống. Tức là từ rất lâu rồi, con người đã luôncó tính tò mò muốn tìm hiểu và khám phá quốc tế xung quanh, bên ngoài nơi sinh sống củahọ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có cảnh sắc thế nào, muốnbiết về những dân tộc bản địa, nền văn hoá, những động vật hoang dã, thực vật và địa hình ở nhữngvùng khác hay vương quốc khác. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới ( UN – WTO ) thì năm 2000 số lượngkhách du lịch toàn thế giới là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD ; năm2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt, thu nhập là 474 tỷ USD ; dự trù đếnnăm 2010 lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD.Mặc dù hoạt động giải trí du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và pháttriển với vận tốc rất nhanh như vậy, tuy nhiên cho đến nay khái niệm “ du lịch ” đượchiểu rất khác nhau tại những vương quốc khác nhau và từ nhiều góc nhìn khác nhau. Đúng như Giáo sư, Tiến sỹ Bemeker – một chuyên viên số 1 về du lịchtrên quốc tế đã nhận định và đánh giá : ” Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứuthì có bấy nhiêu định nghĩa “. Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm ” du lịch ” trên thếgiới cũng như ở Nước Ta, tuy nhiên trước trong thực tiễn tăng trưởng của ngành du lịch vềmặt kinh tế, xã hội cũng như trong nghành nghề dịch vụ huấn luyện và đào tạo, việc điều tra và nghiên cứu, thảoluận để đi đến thống nhất khái niệm “ du lịch ” cũng như 1 số ít khái niệm cơbản khác về du lịch là một yên cầu khách quan. Bản thân khái niệm ” du lịch ” có ý nghĩa tiên phong là sự khởi hành và lưutrú trong thời điểm tạm thời của con người ngoài nơi cư trú liên tục của họ. Từ thủa xaxưa, loài người đã khởi hành với nhiều nguyên do khác nhau như vì lòng ham hiểubiết về thế giới quan xung quanh, vì lòng yêu vạn vật thiên nhiên, vì để học ngoại ngữv. v … Mầm mống tiên phong của hoạt động giải trí kinh doanh thương mại du lịch mở màn xuất hiệntừ cuộc phân loại lao động xã hội lần thứ hai ( lúc ngành thủ công nghiệp xuấthiện và sau đó tách ra khỏi ngành nông nghiệp truyền thống cuội nguồn ). Biểu hiện củahoạt động kinh doanh du lịch trở nên rõ nét hơn khi ngành thương nghiệpxuất hiện vào thời đại chiếm hữu nô lệ, tức là vào quá trình có sự phân chialao động lần thứ ba của xã hội loài người. Vào đầu thế kỷ 17 mở màn diễn ra cuộc cách mạng về giao thông vận tải trênthế giới – đầu máy hơi nước được sử dụng thoáng rộng, sắt kẽm kim loại ngày càng cómặt nhiều hơn trong ngành đường tàu, đóng tàu và công nghiệp sản xuất ôtô. Chỉ sau một thời hạn ngắn, ở châu Âu và châu Mỹ, mạng lưới đường sắtđã được hình thành. Nhiều tàu lớn, nhỏ, tân tiến đi lại khắp những biển và vịnhtrên quốc tế. Giao thông trở thành nguyên do chính và điều kiện kèm theo vật chấtquan trọng giúp cho việc tăng trưởng những cuộc khởi hành của con người đượcthông suốt. Đến thế kỷ 19, khách du lịch hầu hết đi lại tự cung tự túc, ít gây phiền hàcho dân bản xứ. Muộn hơn, khi du lịch trở thành hiện tượng kỳ lạ đại chúng, bắtđầu phát sinh ra hàng loạt yếu tố về việc bảo vệ chỗ ăn, chỗ ngủ cho nhữngngười trong thời điểm tạm thời sống ở nơi ngoài nơi cư trú tiếp tục của họ. Lúc này bắtđầu Open những nghề mới trong dân chúng tại những vùng du lịch như : kinhdoanh khách sạn, nhà hàng quán ăn, môi giới, hướng dẫn du lịch v.v… Hàng loạt cáccơ sở chuyên ship hàng du lịch như khách sạn, quán ăn, shop, tiệm giảikhát v.v… cùng những tổ chức triển khai du lịch và đội ngũ ship hàng du lịch lần lượt sinh ra. Từ giữa thế kỷ 19, du lịch mới thực sự trở thành một hiện tượng kỳ lạ đại chúng vàlặp đi, tái diễn đều đặn. Đó là nguyên do lý giải tại sao khoa học du lịch ra đờimuộn hơn một số ít ngành khoa học khác. Như vậy, du lịch là hiện tượng kỳ lạ kinh tế, xã hội phức tạp và trong quátrình tăng trưởng, nội dung của nó không ngừng được lan rộng ra và ngày thêmphong phú. Để đưa ra một định nghĩa cho hiện tượng kỳ lạ đó sao cho nó vừamang đặc thù bao quát, vừa mang đặc thù lý luận và thực tiễn, những tác giảgặp không ít những khó khăn vất vả. Có thể nêu ra một số ít khó khăn vất vả sau : Khó khăn thứ nhất : Do sống sót những cách tiếp cận khác nhau và dướicác góc nhìn khác nhau mà những tác giả có những định nghĩa khác nhau về du lịch. Tiếp cận trên góc nhìn của người đi du lịch : Du lịch là cuộc hành trình dài và lưu trú trong thời điểm tạm thời ở ngoài nơi lưu trú thườngxuyên của thành viên, nhằm mục đích thoả mãn những nhu yếu khác nhau, với mục tiêu hoàbình và hữu nghị. Với họ, du lịch như thể một thời cơ để tìm kiếm những kinhnghiệm sống và sự thoả mãn 1 số ít những nhu yếu về vật chất và niềm tin củamình. Tiếp cận trên góc nhìn người kinh doanh thương mại du lịch : Du lịch là quy trình tổ chức triển khai những điều kiện kèm theo về sản xuất và ship hàng nhằmthoả mãn, cung ứng những nhu yếu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp dulịch coi du lịch như thể một thời cơ để bán những mẫu sản phẩm mà họ sản xuất ranhằm thoả mãn những nhu yếu của khách ( người đi du lịch ), đồng thời thôngqua đó đạt được mục tiêu số một của mình là tối đa hoá doanh thu. Tiếp cận trên góc nhìn của chính quyền sở tại địa phương : Trên góc nhìn này, du lịch được hiểu là việc tổ chức triển khai những điều kiện kèm theo vềhành chính, về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để Giao hàng hành khách. Du lịch là tổng hợp những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại phong phú, được tổ chức triển khai nhằmgiúp đỡ việc hành trình dài và lưu trú trong thời điểm tạm thời của thành viên. Du lịch là một thời cơ đểbán những loại sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng những nguồn thu nhập từcác khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, tăng nhanh cán cân thanh toán giao dịch và nângcao mức sống vật chất và ý thức cho dân địa phương. Tiếp cận trên góc nhìn hội đồng dân cư thường trực : Du lịch là một hiện tượng kỳ lạ kinh tế-xã hội. Trong quy trình tiến độ lúc bấy giờ, nóđược đặc trưng bởi sự tăng nhanh khối lượng và lan rộng ra khoanh vùng phạm vi và cơ cấudân cư tham gia vào quy trình du lịch của mỗi nước, mỗi vùng trên quốc tế. Với họ, hoạt động giải trí du lịch tại địa phương mình vừa đem lại những thời cơ đểtìm hiểu về nền văn hoá và phong thái của người ngoài địa phương, ngườinước ngoài ; là thời cơ để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và tăng trưởng cácnghề truyền thống, những nghề bằng tay thủ công truyền thống cuội nguồn của dân tộc bản địa. Thông qua dulịch, một mặt hoàn toàn có thể tăng thu nhập, nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng tác động đếnđời sống người dân thường trực như : về thiên nhiên và môi trường, trật tự bảo mật an ninh xã hội, nơi ănchốn ở v.v… Khó khăn thứ hai : Là do sự khác nhau về ngôn từ và cách hiểu khácnhau về du lịch ở những nước khác nhau. Theo những học giả khác nhau, bản thân thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữnhiều nước, cũng được bắt nguồn từ 1 số ít nguồn gốc khác nhau. Có một số học giả cho rằng thuật ngữ “ du lịch ” trong ngôn từ nhiềunước bắt nguồn từ gốc tiếng Pháp ” le tourisme “. Bản thân từ ” le tourisme ” lạiđược bắt nguồn từ gốc ” le tour ” – có nghĩa là một cuộc hành trình dài đi đến nơinào đó và quay trở lại. Thuật ngữ đó sang tiếng Anh thành ” tourism “, tiếngNga – ” mypuzm ” v.v…. Như vậy, khái niệm ” du lịch ” ở những nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Nga, v.v… có ý nghĩa tiên phong là khởi hành, đi lại, chinhphục khoảng trống. Người Đức lại không sử dụng gốc từ tiếng Pháp mà sử dụng từ ” derFremdenverkehrs ” là tổng hợp từ 3 từ có nghĩa là ngoại ( lạ ) ; giao thông vận tải ( đi lại ) và mối quan hệ. Vì vậy, những học giả người Đức nhìn nhận ” du lịch ” như là mốiquan hệ, sự đi lại hay luân chuyển của những người đi du lịch. Một cách cụthể hơn thì với gốc từ đó, đằng sau hiện tượng kỳ lạ ” du lịch ” người Đức hiểu rằngđó là những mối quan hệ, được hình thành trong thời hạn khởi hành và lưu trútạm thời, giữa khách du lịch và những nhân viên cấp dưới ship hàng. Một số học giả khác lại cho rằng thuật ngữ “ du lịch ” trong ngôn ngữnhiều nước được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ” tomos ” với nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được Latin hoá thành ” tomus ” và sau đó thành ” tourisme ” ( tiếng Pháp ) ; tourism ( tiếng Anh ), ” mypuzm ” ( tiếng Nga ) v.v… Tuy hoàn toàn có thể chưa có sự thống nhất về nguồn gốc của thuật ngữ “ du lịch ” theo quan điểm của những học giả khác nhau, tuy nhiên điều quan trọng hơn là nghĩađầu tiên của thuật ngữ đó đều được bắt nguồn từ gốc : cuộc hành trình dài đi mộtvòng từ một nơi này đến một nơi khác và có quay trở lại. Trong tiếng Việt, thuật ngữ ” du lịch ” được dịch ra trải qua tiếng TrungQuốc. Tuy nhiên, lúc bấy giờ có sự sống sót những cách nhìn nhận khác nhau về dulịch ở những nước khác nhau là do những nguyên do sau đây : Phụ thuộc vào lịch sử vẻ vang và trình độ tăng trưởng của ngành du lịch. Ngànhdu lịch tăng trưởng ở mức độ khác nhau, kéo theo sự tăng trưởng khác nhau củakhoa học nghiên cứu và điều tra du lịch, từ đó dẫn đến những cách nhìn nhận khác nhau vềdu lịch. Phụ thuộc vào tầm quan trọng của du lịch so với nền kinh tế – xã hộicủa quốc gia ( là ngành kinh tế mũi nhọn ; là ngành kinh tế quan trọng ; làngành đem lại doanh thu cao hay đem lại doanh thu không đáng kể ). Tầm quantrọng và vai trò của du lịch cũng tác động ảnh hưởng đến mức độ tăng trưởng của lĩnhvực khoa học du lịch. Phụ thuộc vào chủ trương tăng trưởng du lịch ở mỗi vương quốc. Mỗi nước có một chủ trương tăng trưởng du lịch riêng. Có nước ưu tiênphát triển du lịch quốc tế dữ thế chủ động, nước khác – du lịch quốc tế thụ động, nước thứ ba – du lịch trong nước v.v… Do vậy, khi đưa ra định nghĩa về du lịch, người ta hoàn toàn có thể thiên về góc nhìn kinh tế hoặc thiên về góc nhìn xã hội v.v… Khó khăn thứ ba : Do đặc thù đặc trưng của hoạt động giải trí du lịch. Do đặc thù đồng điệu và tổng hợp của nhu yếu du lịch. Nhu cầu du lịch là tổng hợp của những nhu yếu : nhu yếu đi lại, ăn nghỉ, vuichơi, vui chơi và những nhu yếu bổ trợ khác. Các nhu yếu trên xuất phát đồng điệu trong một khoảng chừng thời hạn nhấtđịnh ( thời hạn đi du lịch ). Do đặc thù tổng hợp trong hoạt động giải trí kinh doanh thương mại du lịchMột loại sản phẩm du lịch tổng hợp không hề do một đơn vị chức năng kinh doanh thương mại tạora mà do tổng hợp những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại phong phú tạo ra. Khách du lịchtrong một chuyến đi du lịch ngoài việc thoả mãn một số ít nhu yếu đặc trưngnhư du lịch thăm quan, vui chơi, chữa bệnh v.v…, họ vẫn có những nhu yếu thườngngày như ăn, ngủ. Do vậy, họ phải sử dụng nhiều loại dịch vụ và hàng hoákhác nhau. Trên thực tiễn, những loại dịch vụ và hàng hoá khác nhau khó có thểchỉ do một cơ sở du lịch duy nhất tạo ra hay sản xuất ra được. Trong mộtchuyến đi du lịch, khách du lịch không riêng gì sử dụng một mẫu sản phẩm du lịch đơnthuần, mà phải sử dụng một mẫu sản phẩm du lịch tổng hợp. Vì những lý do đó, hoạt động giải trí kinh doanh thương mại du lịch mang đặc thù tổng hợp. Các thành viên thamgia vào quy trình tạo nên một loại sản phẩm du lịch tổng hợp là rất phong phú. Dovậy, việc thống nhất, link mọi nỗ lực và tham vọng là rất là thiết yếu. Do mối quan hệ, link với những ngành khác, những nhà cung cấpDu lịch là hiện tượng kỳ lạ kinh tế – xã hội phức tạp. Do vậy, ngành du lịch chỉcó thể tăng trưởng được khi có sự phối hợp ngặt nghèo với những ngành khác nhưtài chính – ngân hàng nhà nước, kiến thiết xây dựng, giao thông vận tải vận tải đường bộ, văn hoá, hải quan, bưuchính – viễn thông v.v… Trong một chuyến đi du lịch, khách du lịch không riêng gì sử dụng những dịchvụ và sản phẩm & hàng hóa của những cơ sở du lịch, mà họ còn phải sử dụng 1 số ít dịch vụvà hàng hoá của những cơ sở thuộc những ngành khác : làm thủ tục visa, đổi tiền, gọi điện, gửi thư, đi lại bằng phương tiện đi lại giao thông vận tải công cộng, tư nhân v.v… Do du lịch là hoạt động giải trí kinh tế mới mẻ và lạ mắt, còn đang trong quy trình pháttriển. Du lịch đại chúng tăng trưởng mạnh từ giữa thế kỷ 19, lại bị gián đoạn bởi2 cuộc đại chiến quốc tế. Do tính hai mặt của bản thân từ ” du lịch “. Xưa kia khi hoạt động giải trí du lịch là sơ khai, mang tính lẻ tẻ không quầnchúng thì khi nói đến khách du lịch tức là nói đến người khởi hành đi tìm kiếmnhững kỹ năng và kiến thức và sự vui chơi, khi nói đến du lịch, tức là nói đến cuộc hànhtrình và lưu trú trong thời điểm tạm thời của con người ngoài nơi cư trú tiếp tục. Nhưng, khi hoạt động giải trí du lịch đã mang tính quần chúng, Open một bộ máyđặc biệt ship hàng du lịch ( Open những xí nghiệp sản xuất và hoạt động giải trí ship hàng du lịchnhư y tế, thương mại, sản xuất, du lịch v.v… ) thì khi nói đến du lịch phải đềcập đến hai góc nhìn của hiện tượng kỳ lạ. Do sự sống sót của những khó khăn vất vả khách quan và chủ quan như đã nêu ởtrên trong việc tìm ra một định nghĩa thống nhất về du lịch, cho nên vì thế, đến naycó rất nhiều những định nghĩa khác nhau về du lịch của những tác giả khác nhau. Tìm hiểu lịch sử dân tộc tăng trưởng của kim chỉ nan về du lịch từ trước đến nay, tất cả chúng ta thấy những định nghĩa được phân một cách tương đối làm hai nhóm : nhóm thứ nhất gồm những định nghĩa xem xét sâu về khái niệm ” khách dulịch ” và nhóm thứ hai gồm những định nghĩa xem xét sâu về khái niệm “ du lịch ”. Sau đây, tất cả chúng ta xem xét một số ít khái niệm tiêu biểu vượt trội về du lịch : Năm 1811, lần tiên phong có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau : ” Dulịch là sự phối hợp uyển chuyển giữa triết lý và thực hành thực tế của ( những ) cuộchành trình với mục tiêu vui chơi. Ở đây sự vui chơi là động cơ chính “. Năm 1930, ông Glusman, người Thuỵ Sỹ định nghĩa : ” Du lịch là sựchinh phục khoảng trống của những người đến một khu vực mà ở đó họ khôngcó chỗ cư trú ” liên tục “. Ông Kuns, một người Thuỵ Sỹ khác cho rằng : ” Du lịch là hiện tượngnhững người ở chỗ khác, ngoài nơi ở liên tục, đi đến bằng những phươngtiện giao thông vận tải và sử dụng loại sản phẩm của những nhà máy sản xuất du lịch. ” Giáo sư, tiến sỹ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf – hai người được coilà những người đặt nền móng cho triết lý về cung du lịch đưa ra định nghĩanhư sau : ” Du lịch là tập hợp những mối quan hệ và những hiện tượng kỳ lạ phát sinhtrong những cuộc hành trình dài và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếuviệc lưu trú đó không thành cư trú liên tục và không dính dáng đếnhoạt động kiếm lời “. Đại hội lần thứ 5 của Thương Hội quốc tế những nhà nghiên cứu khoa họcvề du lịch đã đồng ý định nghĩa này làm cơ sở cho môn khoa học du lịch. Các tác giả của định nghĩa đã thành công xuất sắc trong việc lan rộng ra và bao quát đầyđủ hơn hiện tượng kỳ lạ du lịch. Định nghĩa đã tiến được một bước về lý thuyếttrong việc nghiên cứu và điều tra nội dung của du lịch. Định nghĩa này ngày này vẫnđược nhiều nhà kinh tế sử dụng để lý giải từng mặt và cả hiện tượng kỳ lạ dulịch. Mặc dù có những thành công xuất sắc, tuy nhiên định nghĩa này vẫn chưa giới hạnđược khá đầy đủ đặc trưng về nghành nghề dịch vụ của những hiện tượng kỳ lạ và của mối quan hệ dulịch ( những mối quản hệ và hiện tượng kỳ lạ thuộc loại nào kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá v.v… ). Ngoài ra, định nghĩa bỏ sót hoạt động giải trí của những công ty giữnhiệm vụ trung gian ; trách nhiệm tổ chức triển khai du lịch và trách nhiệm sản xuất hàng hoávà dịch vụ cung ứng nhu yếu của khách du lịch. Giáo sư, Tiến sỹ Krapf có phânbiệt rõ sự khác nhau giữa du lịch dữ thế chủ động và du lịch thụ động, nhưng khiđịnh nghĩa du lịch là hiện tượng kỳ lạ kinh tế, ông bỏ sót vế quan trọng về những tổchức du lịch. Khi đó Đại hội gật đầu định nghĩa trên nhưng đặt yếu tố cần tiếp tụchoàn thiện định nghĩa về du lịch. Định nghĩa về du lịch trong cuốn Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch Le Dictionnaire international du tourisme do Viện hàn lâm khoa học quốc tế vềdu lịch xuất bản : ” Du lịch là tập hợp những hoạt động giải trí tích cực của con người nhằm mục đích thựchiện một dạng hành trình dài, là một công nghiệp link nhằm mục đích thoả mãn những nhucầu của khách du lịch … Du lịch là cuộc hành trình dài mà một bên là người khởihành với mục tiêu đã được chọn trước và một bên là những công cụ làmthoả mãn những nhu yếu của họ. ” Nhìn chung, định nghĩa này không được nhiều nước đồng ý. Địnhnghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng kỳ lạ du lịch mà ít nghiên cứu và phân tích nó như mộthiện tượng kinh tế. Định nghĩa của ĐHKT Praha ( CH.Séc ). ” Du lịch là tập hợp những hoạt động giải trí kỹ thuật, kinh tế và tổ chức triển khai liên quanđến cuộc hành trình dài của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thườngxuyên với nhiều mục tiêu khác nhau loại trừ mục tiêu hành nghề và thămviếng có tổ chức triển khai thường kỳ “. Định nghĩa về du lịch của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Vama, Bulgarie : ” Du lịch là một hiện tượng kỳ lạ kinh tế – xã hội được lặp đi, tái diễn đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hoá của những đơn vị chức năng kinh tế riêngbiệt, độc lập – đó là những tổ chức triển khai, những xí nghiệp sản xuất với cơ sở vật chất kỹ thuậtchuyên môn nhằm mục đích bảo vệ sự đi lại, lưu trú, siêu thị nhà hàng, nghỉ ngơi với mục đíchthoả mãn những nhu yếu thành viên về vật chất và ý thức của những người lưu trúngoài nơi ở tiếp tục của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, vui chơi ( thuộc cácnhu cầu về văn hoá, chính trị, kinh tế, v.v… ) mà không có mục tiêu lao độngkiếm lời “. Định nghĩa này đã xem xét rất kỹ hiện tượng kỳ lạ du lịch như thể một phạmtrù kinh tế với khá đầy đủ tính đặc trưng và vai trò của một cỗ máy kinh tế, kỹthuật quản lý và điều hành. Song, nó cũng có điểm yếu kém là lặp đi lặp lại 1 số ít ý. Định nghĩa của Michael Coltman ( Mỹ ) : trái lại với những định nghĩa ở trên, Ông Michael Coltman đã đưa ramột định nghĩa rất ngắn gọn về du lịch : ” Du lịch là sự phối hợp và tương tác của 4 nhóm tác nhân trong quá trìnhphục vụ hành khách gồm có : hành khách, nhà đáp ứng dịch vụ du lịch, cư dânsở tại và chính quyền sở tại nơi đón khách du lịch “. Có thể bộc lộ mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau : Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa, Canadadiễn ra vào ( 6-1991 ) : ” Du lịch là hoạt động giải trí của con người đi tới một nơi ngoàimôi trường tiếp tục ( nơi ở tiếp tục của mình ) trong một khoảngthời gian ít hơn khoảng chừng thời hạn đã được những tổ chức triển khai du lịch lao lý trước, mục tiêu của chuyến đi không phải là để triển khai những hoạt động giải trí kiếm tiềntrong khoanh vùng phạm vi vùng tới thăm “. Trong định nghĩa trên đây đã pháp luật rõ mấy điểm : Ngoài ” thiên nhiên và môi trường liên tục ” có nghĩa là loại trừ những chuyến đitrong khoanh vùng phạm vi nơi ở liên tục và những chuyến đi có tổ chức triển khai thường xuyênhàng ngày ( những chuyến đi liên tục định kỳ có tổ chức triển khai phường hội giữanơi ở và nơi thao tác và những chuyến đi phường hội khác có tổ chức triển khai thườngxuyên hàng ngày ). ” Khoảng thời hạn ít hơn khoảng chừng thời hạn đã được những tổ chức triển khai du lịchquy định trước ” – sự pháp luật này nhằm mục đích loại trừ di cư trong một thời hạn dài. ” Không phải là thực thi những hoạt động giải trí kiếm tiền trong khoanh vùng phạm vi vùng tớithăm ” – có nghĩa là loại trừ việc hành nghề lâu bền hơn hoặc trong thời điểm tạm thời. Để có ý niệm rất đầy đủ cả về góc nhìn kinh tế và kinh doanh thương mại của du lịch, khoa Du lịch và Khách sạn ( Trường ĐHKTQD Thành Phố Hà Nội ) đã đưa ra định nghĩatrên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động giải trí trên quốc tế vàở Nước Ta trong những thập niên gần đây : “ Du lịch là một ngành kinh doanh thương mại gồm có những hoạt động giải trí tổ chứchướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanhnghiệp, nhằm mục đích phân phối những nhu yếu về đi lại lưu trú, siêu thị nhà hàng, du lịch thăm quan, giảitrí, tìm hiểu và khám phá và nhu yếu khác của khách du lịch. Các hoạt động giải trí đó phải đem lạilợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bảnthân doanh nghiệp ”. Trong Pháp lệnh Du lịch của Nước Ta, tại Điều 10, thuật ngữ ” Du lịch ” được hiểu như sau : ” Du lịch là hoạt động giải trí của con người ngoài nơi cư trúthường xuyên của mình nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu nhu yếu du lịch thăm quan, vui chơi, nghỉdưỡng trong một khoảng chừng thời hạn nhất định. ” Như vậy, du lịch là một hoạt động giải trí có nhiều đặc trưng, gồm nhiều thànhphần tham gia, tạo thành một toàn diện và tổng thể rất là phức tạp. Hoạt động du lịchvừa có đặc thù của ngành kinh tế, lại có đặc thù của ngành văn hoá – xãhội. Trên trong thực tiễn, hoạt động giải trí du lịch ở nhiều nước chẳng những đã đem lạilợi ích kinh tế, mà còn cả quyền lợi chính trị, văn hoá, xã hội … Ở nhiều nước trênthế giới, ngành du lịch tăng trưởng với vận tốc khá nhanh và trở thành ngành kinhtế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, nguồn thu nhập từ ngành du lịch đãchiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội. Chính vì những lẽ trên, Hội nghị du lịch quốc tế họp tại Manila, Philippin ( 1980 ) đã ra công bố Manila về du lịch, trong Điều 2 đã ghi rõ : ” … Trướcngưỡng cửa của thế kỷ 21 và trước triển vọng của những yếu tố đang đặt rađối với quả đât, đã đến lúc thiết yếu và phải nghiên cứu và phân tích thực chất của du lịch, hầu hết đi sâu vào bề rộng mà du lịch đã đạt được kể từ khi người lao độngđược quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng du lịch từ một khoanh vùng phạm vi hẹp củathú vui sang khoanh vùng phạm vi lớn của đời sống kinh tế và xã hội. Phần góp phần củadu lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế đang làm cho nó trởthành một luận cứ tốt cho sự tăng trưởng của quốc tế. Vai trò thiết thực của dulịch trong hoạt động giải trí kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và trong sự cânbằng cán cân thanh toán giao dịch, đang đặt du lịch vào vị trí trong số những ngành hoạtđộng kinh tế quốc tế quan trọng nhất. ” 1.2. Khái niệm ” khách du lịch ” Định nghĩa về khách du lịch Open lần tiên phong vào cuối thế kỷ thứXVIII tại Pháp. Thời bấy giờ những cuộc hành trình dài của người Đức, người ĐanMạch, người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và người Anh trên đất Pháp đượcchia ra làm 2 loại. Cuộc hành trình dài nhỏ ( vòng đi nhỏ ” Le petit tour ” ) là cuộc hành trình dài từParis đến miền Đông Nam nước Pháp. Cuộc hành trình dài lớn ( vòng đi lớn ” Le grand tour ” ) là cuộc hành trìnhtheo Bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và vùng Bourgone. Khách du lịch được định nghĩa là người thực thi một cuộc hành trìnhlớn ” faire le grand tour “. Năm 1800, tại Vương Quốc Anh, khách du lịch cũng được định nghĩa làngười thực thi cuộc hành trình dài lớn trên đất liền xuyên nước Anh. Vào đầu thế kỷ XX, nhà kinh tế học người Áo Iozef Stander định nghĩa : ” Khách du lịch là hành khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trúthường xuyên để thoả mãn những nhu yếu hoạt động và sinh hoạt hạng sang mà không theođuổi những mục tiêu kinh tế “. Nhà kinh tế học người Anh Odgil Vi chứng minh và khẳng định : để trở thành khách dulịch cần có hai điều kiện kèm theo. Thứ nhất : Phải xa nhà thời hạn dưới một nămThứ hai : Ở đó phải tiêu những khoản tiền đã tiết kiệm ngân sách và chi phí ở nơi khác. Một người Anh khác, ông Morval cho rằng khách du lịch là người đếnđất nước khác theo nhiều nguyên do khác nhau, những nguyên do đókhác biệt với những nguyên do phát sinh để cư trú tiếp tục và để làmthương nghiệp, và ở đó họ phải tiêu tiền đã kiếm ra ở nơi khác. Giáo sư Khadginicolov – một trong những nhà tiền bối về du lịch củaBulgarie đưa ra định nghĩa về khách du lịch : “ Khách du lịch là người hànhtrình tự nguyện, với những mục tiêu hoà bình. Trong cuộc hành trình dài củamình, người đó đi qua những chặng đường khác nhau và biến hóa một hoặcnhiều lần nơi lưu trú của mình ”. Các định nghĩa nêu ra ở trên đều mang tính phiến diện, chưa không thiếu, đa phần mang đặc thù phản ánh sự tăng trưởng của du lịch đương thời và xemxét không không thiếu, hạn chế nội dung thực của khái niệm – khách du lịch. Để nghiên cứu và điều tra một cách khá đầy đủ và có cơ sở đáng đáng tin cậy, cần tìm hiểuvà nghiên cứu và phân tích 1 số ít định nghĩa về ” khách du lịch ” được đưa ra từ những hội nghịquốc tế về du lịch hay của những tổ chức triển khai quốc tế có chăm sóc đến những vấn đềvề du lịch. 1.2.1. Định nghĩa của những tổ chức triển khai quốc tế về khách du lịchĐịnh nghĩa của Liên hiệp những vương quốc – League of NationsNăm 1937 League of Nations đưa ra định nghĩa về ” khách du lịch nướcngoài – foreign tourist ” : ” Bất cứ ai đến thăm một quốc gia khác với nơi cư trúthường xuyên của mình trong khoảng chừng thời hạn tối thiểu là 24 h “. Theo định nghĩa này tổng thể những người được coi là khách du lịchlà : Những người khởi hành để vui chơi, vì những nguyên do mái ấm gia đình, vìsức khoẻ v.v… Những người khởi hành để gặp gỡ, trao đổi những mối quan hệ về khoahọc, ngoại giao, tôn giáo, thể thao, công vụ … Những người khởi hành vì những mục tiêu kinh doanh thương mại ( businessreasons ) ; Những người cập bến từ những chuyến hành trình dài du ngoại trên biển ( seacruise ) thậm chí còn cả khi họ dừng lại trong khoảng chừng thời hạn ít hơn 24 h. Những người không được coi là khách du lịch là : Những người đến lao động, kinh doanh thương mại có hoặc không có hợp đồng laođộng ; Những người đến với mục tiêu định cư ; Sinh viên hay những người đến học ở những trường ; Những người ở biên giới sang thao tác ; Những người đi qua một nước mà không dừng mặc dầu cuộc hành trìnhđi qua nước đó hoàn toàn có thể lê dài 24 h. Định nghĩa của Liên hiệp Quốc tế của những Tổ chức Chính thức về Dulịch – IUOTO ( International Union of Official Travel Organizations – sau này trởthành WTO ). Năm 1950, IUOTO đưa ra định nghĩa về ” khách du lịch quốc tế international tourist ” với 2 điểm khác với định nghĩa trên, đó là : Sinh viên và những người đến học ở những trường cũng được coi làkhách du lịch. Những người quá cảnh không được coi là khách du lịch trong cả haitrường hợp : Hoặc là họ hành trình dài qua một nước không dừng lại trong thờigian > 24 giờ ; hoặc là họ hành trình dài trong khoảng chừng thời hạn < 24 giờ và códừng lại nhưng không với mục tiêu du lịch. Định nghĩa về khách du lịch được gật đầu tại Hội nghị tại Rôma ( Ý ) do Liên hợp quốc tổ chức triển khai về những yếu tố du lịch quốc tế và đi lại quốc tế ( năm1963 ). Trong những chuẩn mực thống kê quốc tế của Tổ chức Du lịch Thế giới ( WTO ) khái niệm khách viếng thăm quốc tế ( visitor ) có vai trò quan trọngchính ( xem sơ đồ 1.1 ). Theo định nghĩa của Hội nghị tại Rôma ( Ý ) do Liênhợp quốc tổ chức triển khai về những yếu tố du lịch quốc tế và đi lại quốc tế ( năm 1963 ), khách đến thăm quốc tế ( visitor ) được hiểu là người đến một nước, khácnước cư trú tiếp tục của họ, bởi mọi nguyên do, trừ nguyên nhânđến lao động để kiếm sống. Khái niệm khách viếng thăm quốc tế gồm có 2 thành phần : khách dulịch quốc tế và khách thăm quan quốc tế ( được thống kê trong du lịch ). Khách du lịch quốc tế ( intematinal tourist ) là người lưu lại trong thời điểm tạm thời ởnước ngoài và sống ngoài nơi cư trú liên tục của họ trong thời hạn ítnhất là 24 giờ ( hoặc sử dụng tối thiểu một tối trọ ). Động cơ khởi hành của họđược phân nhóm như sau : Thời gian rỗi ( đi du lịch để vui chơi, để chữa bệnh, để học tập, với mụcđích thể thao hoặc tôn giáo ). Đi du lịch tương quan đến việc làm làm ăn ( ký kết giao kèo ) ; thăm giađình, bạn hữu, họ hàng ; đi du lịch để tham gia vào những cuộc hội nghị đại hội cáccuộc đua thể thao v.v... Với khái niệm trên, khách du lịch quốc tế gồm có những người sauđây : Người quốc tế, không sống ở nước đến thăm và đi theo những độngcơ đã nêu trên. Công dân của một nước, sống cư trú liên tục ở quốc tế vềthăm quê nhà. Nhân viên của những tổ lái ( máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, xe hơi ) đến thăm, nghỉ ở nước khác và sử dụng phương tiện đi lại cư trú. Ở đây kể cả những ngườikhông phải là nhân viên cấp dưới của những hãng giao thông vận tải vận tải đường bộ mà là những lái xetải, xe ca tư nhân. Khách thăm quan quốc tế ( international excursionist ) là người lưu lạitạm thời ở quốc tế và sống ngoài nơi cư trú liên tục của họ trongthời gian ít hơn 24 giờ ( hoặc là không sử dụng một tối trọ nào ). Ở đây kể tấtcả những người đến một nước theo đường đi bộ, đường thủy với thời hạn làmấy ngày, hàng tối họ lại quay trở lại ngủ tại tàu, thuyền, xe hơi v.v... đưa họ đi. Vậy, khách thăm quan quốc tế gồm có những thành phần sau : Những khách du lịch thăm quan theo đường thủy, tối về ngủ lại tàu ( nếu khôngngủ lại tàu mà sử dụng những phương tiện đi lại lưu trú thì họ trở thành khách dulịch ). Nhân viên của những tổ lái đến thăm nghỉ ở nước khác, nhưng ngủ tạiphương tiện giao thông vận tải của mình. Khách đến thăm một nước khác trong vòng một ngày. Nhưng người sau không được coi là khách du lịch ( không được thốngkê trong du lịch ) : Những người ra quốc tế để tìm kiếm việc làm hoặc để làm ăn theohoặc không theo hợp đồng. Những công dân ở vùng giáp giới sống ở nước bên này, nhưng làmviệc ở nước bên cạnh. Những người dân di cư trong thời điểm tạm thời hoặc cố địnhNhững người tị nạn. Những người tha phương cầu thựcCác nhà ngoại giaoNhân viên của những đại sứ quán, lãnh sự quán và những lực lượng bảo an. Năm 1968, uỷ ban Thống kê của Liên Hiệp Quốc - United NationsStatistical Commision công nhận định nghĩa đó. Tuy nhiên, Uỷ ban chấp thuận đồng ý vớimột số nước sử dụng từ " khách viếng thăm trong ngày - sameday visitor " thaycho " khách du lịch thăm quan - excursionist " và thay điều kiện kèm theo thời hạn 24 giờ là mộttối trọ - overnight. Định nghĩa của Tiểu ban về những yếu tố kinh tế - xã hội thường trực Liênhiệp quốc ( United Nations Department of Economic and Social Affaires ) Năm 1978, Tiểu ban đã đưa ra định nghĩa về “ khách viếng thăm quốc tế - international visitor from abroad ” như sau : " Khách viếng thăm quốc tế là tấtcả những người từ quốc tế đến thăm một quốc gia ( given country ) tất cả chúng ta gọi là khách du lịch dữ thế chủ động ( Inbound tourist ) ; hoặc toàn bộ nhữngngười từ một nước đi ra quốc tế viếng thăm - tất cả chúng ta gọi là khách dulịch thụ động ( Outbound tourist ) với khoảng chừng thời hạn nhiều nhất là một năm. Tiểu ban còn đưa ra định nghĩa về " khách du lịch trong nước - Domestictourist " như sau : " Khách du lịch trong nước là công dân của một nước ( không kểquốc tịch ) hành trình dài đến một nơi trong quốc gia đó, khác nơi cư trú thườngxuyên của mình trong khoảng chừng thời hạn tối thiểu là 24 giờ, hay 1 đêm với mọimục đích trừ mục tiêu hoạt động giải trí để được trả thù lao tại nơi đến ". Tiểu ban cũng thống nhất về động cơ của mỗi cuộc hành trình dài, có thểthuộc 2 nhóm động cơ như sau : Nghỉ ngơi, vui chơi, kỳ nghỉ, sức khoẻ, học tập, tôn giáo, thể theo. Kinh doanh, mái ấm gia đình, công vụ, gặp gỡ. Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về Du lịch tại Hà Lan năm 1989 : " Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một quốc gia khác, vớimục đích thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi, thăm hỏi động viên trong khoảng chừng thời hạn nhỏhơn 3 tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù laovà sau thời hạn lưu trú ở đó hành khách trở về nơi ở liên tục của mình ". Điểm đặc biệt quan trọng nhất của định nghĩa này là lao lý về thời hạn củachuyến đi du lịch so với khách du lịch quốc tế ( nhỏ hơn 3 tháng ). Ngày 4-3-1993 theo ý kiến đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồngThống kê Liên hiệp quốc ( United Nations Statistical Commission ) đã côngnhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch : Khách du lịch quốc tế ( International tourist ) gồm có : Khách du lịch quốc tế đến ( Inbound tourist ) : Gồm những người từ nướcngoài đến du lịch một vương quốc. Khách du lịch quốc tế ra quốc tế ( Outbound tourist ) : Gồm nhữngngười đang sống trong một vương quốc đi du lịch quốc tế. Khách du lịch trong nước ( Internal touristy ) : Gồm những người là côngdân của một vương quốc và những người quốc tế đang sống trên lãnh thổcủa vương quốc đó đi du lịch trong nước. Khách du lịch trong nước ( Domestic touristy ) : gồm có khách du lịch trongnước và khách du lịch quốc tế đến. Đây là thị trường cho những cơ sở lưu trú và những nguồn lôi cuốn du kháchtrong một vương quốc. Khách du lịch vương quốc ( National touristy, gồm có khách du lịch trongnước và khách du lịch quốc tế ra quốc tế. Đây là thị trường cho những đại lý lữ hành và những hãng hàng không. Nghiên cứu 1 số ít định nghĩa khác nữa về khách du lịch cho thấy rằng, mặc dầu còn có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về khách du lịch nói chung, khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong nước nói riêng, tuy nhiên xét một cáchtổng quát chúng đều có 1 số ít điểm chung điển hình nổi bật như sau : Khách du lịch phải là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyêncủa mình ( ở đây tiêu chuẩn quốc tịch không quan trọng, mà là tiêu chuẩn nơi cư trúthường xuyên ). Khách du lịch hoàn toàn có thể khởi hành với mọi mục tiêu khác nhau, loại trừmục đích lao động để kiếm tiền ở nơi đến. Như vậy, những đối tượng người tiêu dùng saukhông được thống kê là khách du lịch : Những người đến để thao tác có hoặc không có hợp đồng lao động ; Những người đi học ; Những người di cư, tị nạn ; Những người thao tác tại những đại sứ quán, lãnh sự quán ; Những người thuộc lực lượng bảo an của Liên hiệp quốc ; Và 1 số ít đối tượng người dùng khác nữa. Thời gian lưu lại nơi đến tối thiểu là 24 giờ ( hoặc có sử dụng tối thiểu mộttối trọ ), nhưng không được quá một năm ( cũng có vương quốc qui định thời giannày ngắn hơn, ví dụ như ở Hà Lan là không quá 3 tháng ). Như vậy, nhữngngười lưu lại trong ngày ( không sử dụng một tối trọ nào ) chỉ được thống kê làkhách du lịch thăm quan ( excursionist ) so với nơi đến. Có một số ít vương quốc đưa ra thêm một tiêu chuẩn qui định về khách dulịch nữa là : Khoảng cách tối thiểu mà người đó đi ra khỏi nhà. Ví dụ : ởCanada khoảng cách đó là 100 dặm, ở Mỹ là 50 dặm. Như vậy, những định nghĩa đã nêu ở trên về khách du lịch không ít cónhững điểm khác nhau tuy nhiên nhìn chung chúng đều đề cập đến 3 khía cạnhsau : Thứ nhất, đề cập đến động cơ khởi hành ( hoàn toàn có thể là đi du lịch thăm quan, nghỉdưỡng, thăm thân, phối hợp kinh doanh thương mại ... trừ động cơ lao động kiếm tiền ) ; Thứ hai, đề cập đến yếu tố thời hạn ( đặc biệt quan trọng chú trọng đến sự phânbiệt giữa khách thăm quan trong ngày và khách du lịch là những người nghỉqua đêm hoặc có sử dụng một tối trọ ) ; Thứ ba, đề cập đến những đối tượng người dùng được thống kê là khách du lịch vànhững đối tượng người tiêu dùng không được thống kê là khách du lịch như : dân di cư, kháchquá cảnh, ... 1.2.2. Định nghĩa về khách du lịch của Việt NamTrong Pháp lệnh Du lịch của Nước Ta phát hành năm 1999 có nhữngqui định như sau về khách du lịch : Tại điểm 2, Điều 10, Chương I : " Khách du lịch là người đi du lịch hoặckết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, thao tác hoặc hành nghề để nhậnthu nhập ở nơi đến ". Tại Điều 20, Chương IV : " Khách du lịch gồm có khách du lịch nội địavà khách du lịch quốc tế ". " Khách du lịch trong nước là công dân Nước Ta và người quốc tế cưtrú tại Nước Ta đi du lịch trong khoanh vùng phạm vi chủ quyền lãnh thổ Nước Ta ". " Khách du lịch quốc tế là người quốc tế, người Nước Ta định cư ởnước ngoài vào Nước Ta du lịch và công dân Nước Ta, người quốc tế cưtrú tại Nước Ta ra quốc tế du lịch ". 1.3. Sản phẩm du lịch và tính đặc trưng của nóĐề cập đến bất kể hoạt động giải trí kinh doanh thương mại nào, tất cả chúng ta cũng không thểkhông nhắc đến mẫu sản phẩm của hoạt động giải trí đó. Vì vậy, khi khám phá những kháiniệm chung về du lịch tất cả chúng ta cũng phải khám phá xem thế nào là sản phẩmdu lịch và những nét đặc trưng cơ bản của nó. 1.3.1. Khái niệmSản phẩm du lịch là những dịch vụ, hàng hoá cung ứng cho hành khách, được tạo nên bởi sự tích hợp của việc khai thác những yếu tố tự nhiên, xã hội vớiviệc sử dụng những nguồn lực : Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơsở, một vùng hay một vương quốc nào đó. 1.3.2. Những bộ phận hợp thành loại sản phẩm du lịchQua khái niệm trên, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy mẫu sản phẩm du lịch gồm có cảnhững yếu tố hữu hình và những yếu tố vô hình dung. Yếu tố hữu hình là hànghoá, yếu tố vô hình dung là dịch vụ. Xét theo quy trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trìnhdu lịch thì tất cả chúng ta hoàn toàn có thể tổng hợp những thành phần của loại sản phẩm du lịchtheo những nhóm cơ bản sau : Thương Mại Dịch Vụ vận chuyểnDịch vụ lưu trú, dịch vụ nhà hàng ; đồ ăn, thức uốngDịch vụ thăm quan, giải tríHàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệmCác dịch vụ khác ship hàng khách du lịch1. 3.3. Những nét đặc trưng cơ bản của loại sản phẩm du lịchSản phẩm du lịch về cơ bản là không đơn cử, không sống sót dưới dạngvật thể. Thành phần chính của loại sản phẩm du lịch là dịch vụ ( thường chiếm 8090 % về mặt giá trị ), hàng hoá chiếm tỷ trọng nhỏ. Do vậy, việc nhìn nhận chất lượng loại sản phẩm du lịch rất khó khăn vất vả, vìthường mang tính chủ quan và phần đông không phụ thuộc vào vào người kinhdoanh mà phụ thuộc vào vào khách du lịch. Chất lượng loại sản phẩm du lịch đượcxác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhậnvề chất lượng của khách du lịch. Chính vì đặc thù này của loại sản phẩm du lịch nên đã có nhiều quan điểm chorằng trong nghành nghề dịch vụ du lịch việc sử dụng thuật ngữ “ mẫu sản phẩm du lịch ” để chỉkết quả của quy trình lao động du lịch là không đúng mực bằng thuật ngữ “ dịch vụ du lịch ”. Nhưng, việc sử dụng thuật ngữ “ mẫu sản phẩm du lịch ” là hoàntoàn đúng mực. Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên dulịch. Do vậy, loại sản phẩm du lịch không hề di dời được. Trên trong thực tiễn, không hề đưa mẫu sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc kháchdu lịch phải đến với nơi có mẫu sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu yếu của mìnhthông qua việc tiêu dùng loại sản phẩm du lịch. Đặc điểm này của mẫu sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhângây khó khăn vất vả cho những nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ mẫu sản phẩm. Phần lớn quy trình tạo ra và tiêu dùng những mẫu sản phẩm du lịch trùng nhauvề khoảng trống và thời hạn. Chúng không hề cất đi, tồn dư như những hànghoá thường thì khác. Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn vất vả. Việc lôi cuốn khách du lịch nhằm mục đích tiêu thụ mẫu sản phẩm du lịch là yếu tố vô cùngquan trọng so với những nhà kinh doanh du lịch. Việc tiêu dùng mẫu sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà cóthể chỉ tập trung chuyên sâu vào những thời hạn nhất định trong ngày ( so với sản phẩmở bộ phận nhà hàng quán ăn ), trong tuần ( so với mẫu sản phẩm của thể loại du lịch cuốituần ), trong năm ( so với mẫu sản phẩm của một số ít mô hình du lịch như : du lịchnghỉ biển, du lịch nghỉ núi ... ). Vì vậy, trên trong thực tiễn hoạt động giải trí kinh doanh thương mại du lịch thường mang tính mùavụ. Sự giao động ( về thời hạn ) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn vất vả cho việctổ chức hoạt động giải trí kinh doanh thương mại và từ đó ảnh hưởng tác động đến tác dụng kinh doanhcủa những nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh thương mại dulịch luôn là yếu tố bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như về mặt lý luận tronglĩnh vực du lịch. Tóm tắt chương 1C hương “ Một số khái niệm cơ bản về du lịch ” đã trình diễn những nộidung cơ bản như sau : Phân tích những nguyên do dẫn đến sự sống sót những định nghĩa khácnhau về du lịch ; Đưa ra một số ít khái niệm về du lịch trên quốc tế và ở Nước Ta ; Đưa ra và nghiên cứu và phân tích một số ít khái niệm về khách du lịch trên quốc tế vàở Nước Ta ; Đưa ra khái niệm và nghiên cứu và phân tích đặc thù của loại sản phẩm du lịch. Câu hỏi ôn tập và tranh luận chương 11 ) Phân tích khái niệm về du lịch của Michael Coltman ( nghiên cứu và phân tích cácbộ phận cấu thành hoạt động giải trí du lịch và mối quan hệ giữa chúng ). 2 ) Phân tích những tiêu chuẩn để xác lập khách du lịch. 3 ) Phân tích thực chất và ý nghĩa của những thể loại khách du lịch phântheo Tổ chức Du lịch Thế giới năm 1993.4 ) Phân tích những đặc thù của mẫu sản phẩm du lịch, nêu những khó khăndo chúng gây ra và những giải pháp khắc phục. Chương 2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, XU HƯỚNG PHÁTTRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA DU LỊCHYêu cầu của chương 2S au khi nghiên cứu và điều tra nội dung của chương này, người học cần nắmđược những nội dung chính sau : - Các quy trình tiến độ của lịch sử vẻ vang hình thành và tăng trưởng của du lịch trên thếgiới, của những khu vực, vương quốc tăng trưởng mạnh du lịch trên quốc tế cùng cácxu hướng tăng trưởng của nhu yếu du lịch ; thể loại du lịch theo những quy trình tiến độ đó. - Các xu thế tăng trưởng của cầu, cung du lịch trên quốc tế, tại ViệtNam - Các ảnh hưởng tác động, về mặt kinh tế, xã hội của việc tăng trưởng du lịch quốc tếchủ động, du lịch quốc tế thụ động, du lịch trong nước. 2.1. Lịch sử hình thành và tăng trưởng của du lịch

Source: https://ladyfirst.vn
Category: DU LỊCH

Related posts

8 điều không thể bỏ lỡ khi du lịch Lăng Cô

ladybaby

Điểm du lịch Tây Ninh hấp dẫn

ladybaby

35 địa điểm du lịch ở Sapa đẹp siêu lòng, nhất định phải check in

ladybaby